"Vu lan" là cách viết tắt của "Vu lan bồn",
tiếng Phạn là "Ullambana". Ullam dịch là "treo ngược" (đảo
huyền), ví cho sự thống khổ của người chết như bị treo ngược; chữ
"bồn" tiếng Phạn là "bana" tạm dịch là "cứu
giúp". Như vậy chúng ta có thể hiểu từ "Vu lan bồn" có nghĩa là
giải cứu người bị tội thống khổ tột cùng.
Trong khi đó từ "báo hiếu" như mọi người vẫn biết, đó
là sự báo đáp, đền đáp công đức sinh thành dưỡng dục của người con đối với cha
mẹ.
Lễ Vu lan được xuất phát từ kinh "Vu lan bồn" của Phật
giáo. Đức Phật đã dạy phương thức báo hiếu cho cha mẹ ở đời này và nhiều đời
khác. Người đầu tiên tiếp nhận chính là Tôn giả Mục Kiền Liên, Ngài là một
trong 10 vị đệ tử xuất chúng của Đức Phật.
Theo kinh "Vu lan bồn" thì ngày xưa, Mục Kiền Liên đã
tu luyện thành công nhiều phép thần thông. Mẹ ông là bà Thanh Đề đã qua đời,
ông tưởng nhớ và muốn biết bây giờ mẹ như thế nào nên dùng mắt phép nhìn khắp
trời đất để tìm.
Thấy mẹ mình, vì gây nhiều nghiệp ác nên phải sanh làm ngạ quỷ,
bị đói khát hành hạ khổ sở, ông đã đem cơm xuống tận cõi quỷ để dâng mẹ. Tuy
nhiên do đói ăn lâu ngày nên mẹ của ông khi ăn đã dùng một tay che bát cơm của
mình đi không cho các cô hồn khác đến tranh cướp, vì vậy khi thức ăn đưa lên
miệng đã hóa thành lửa đỏ.
Mục
Kiền Liên quay về tìm Phật để hỏi cách cứu mẹ, Phật dạy rằng: "Dù ông thần
thông quảng đại đến đâu cũng không đủ sức cứu mẹ ông đâu. Chỉ có một cách nhờ
hợp lực của chư tăng khắp mười phương mới mong giải cứu được. Ngày rằm tháng
bảy là ngày thích hợp để cung thỉnh chư tăng, hãy sắm sửa lễ cúng vào ngày
đó".
Làm theo lời Phật, mẹ của Mục Kiền Liên đã được giải thoát. Phật
cũng dạy rằng, chúng sanh ai muốn báo hiếu cho cha mẹ cũng theo cách này. Từ
đó, ngày lễ Vu lan ra đời.
Kể từ những năm tháng đầu tiên khi Phật giáo truyền vào Việt
Nam, các chùa đã tổ chức Lễ Vu lan. Ngày nay, Lễ Vu lan không còn đơn thuần chỉ
có ý nghĩa tôn giáo thiêng liêng ca ngợi lòng hiếu thảo đối với mẹ không thôi
mà đã trở thành "lễ hội" mang tính cách nhân văn nói lên lòng hiếu
kính của tất cả mọi người đối với cả mẹ lẫn cha hiện tiền, hay ông bà cha mẹ đã
quá vãng nhiều đời nhiều kiếp.
Lòng trân trọng hiếu kính mẹ cha, phụng thờ tổ tiên ông bà,
chính là sợi dây liên kết giữa người còn kẻ mất, là truyền thống cao đẹp nêu
cao tình người của dân tộc Việt.
Trong Lễ Vu lan thường có nghi thức Bông hồng cài áo. Theo
GS.TS. Ngô Đức Thịnh - Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu, Bảo tồn văn hóa tín
ngưỡng Việt Nam, nghi thức Bông hồng cài áo xuất phát từ áng văn viết về mẹ của
Thiền sư Thích Nhất Hạnh được viết vào những năm 1960.
Trong một chuyến công tác tại Nhật Bản, Thiền sư rất lạ khi thấy
người Nhật thành kính gài tặng ông một bông hoa trắng lên ngực áo. Sau khi tìm
hiểu và biết được ý nghĩa cao đẹp của việc này, ông đã chọn bông hoa hồng làm
biểu tượng cho lễ Vu lan Báo hiếu của nhà Phật và viết ấn phẩm "Bông
Hồng Cài Áo" vào năm 1962.
Bông hoa hồng được chọn là biểu tượng của tình yêu, sự cao quý
và ngát hương. Việc nhớ về bậc sinh thành và cài lên ngực bông hoa cao quý
là tình cảm đẹp nhất, là chữ hiếu mà con cái gửi đến bậc sinh thành.
Với ý nghĩa đó, nhiều người Việt mình đến ngày Vu lan đều cài
một bông hoa màu đỏ lên áo, đó là biểu tượng của việc còn cha mẹ. Những
người đã mất mẹ thì cài hoa màu trắng.