Đức
Phật thường nói rằng nếu không nợ nhau thì làm sao gặp gỡ. Cùng khám phá nghiệp
quả giữa vợ chồng, cha mẹ và con cái
“Có thể người vợ ở kiếp này là người bạn chôn kiếp
trước, tới trả nợ cho bạn. Đứa con trai ở kiếp này, là chủ nợ của bạn ở kiếp
trước, để đòi món nợ chưa trả. Đứa con gái ở kiếp này, là người tình ở kiếp trước,
tới vì tình cảm chưa dứt. Người tình kiếp này, là vợ chồng của kiếp
trước tới nối tiếp phần duyên phận chưa dứt. Hồng nhan tri kỷ của kiếp này là
anh em của kiếp trước tới chia sẻ những tâm sự chưa nói hết. Người giàu có kiếp
này là người giàu lòng thiện kiếp trước, tới nhận phần công đức đã phát ra từ
kiếp trước….. Đây không phải là mê tín mà là nhân quả luân hồi, là số kiếp. Phật
thường nói rằng nếu không nợ nhau thì làm sao gặp gỡ”.
Bất cứ việc gì, bất cứ người nào, trong gia đình
(ngay cả ngoài gia đình, bề trên, cấp dưới…) phàm làm khiến cho ta tổn hại, đều
phải gánh chịu thọ báo. Gia quyến lục thân, đều do tứ nhân tương tụ (tứ nhân là
trả nợ, đòi nợ, trả ơn và báo oán) bất luận chúng ta thọ báo bao nhiêu oan ức,
không những không được sân hận, ngược lại phải sám hối cho nghiệp chướng của
chính ta, tội nghiệp của quá khứ hay đời trước nay phải trả, nếu đem lòng sân hận,
làm sao không tạo thêm nghiệp mới, “Chúng sanh oan oan tương báo đến bao giờ mới
hết, nếu biết lấy ân báo oán thì oán liền tiêu trừ”.
Tất cả mọi nơi đều có oan gia trái chủ đến gây nạn
(làm khó dễ) chúng ta phải phản tỉnh lại, tại sao họ không tìm người khác để
gây phiền phức, đều do trong quá khứ hay đời quá khứ, chúng ta có làm điều gì
sai lỗi với họ, ta phải tu nhẫn nhục, làm nghịch tăng thượng duyên, lúc đó mọi
oán thù trong quá khứ nhờ đó mà được tiêu trừ.
Có
rất nhiều người kết hôn nhưng suốt đời chẳng có con, vì sao?
Chẳng có duyên! Con cái phải có duyên với bạn thì
chúng mới đầu thai vào nhà bạn. Chúng không có duyên với bạn, sẽ
không đầu thai vào nhà bạn. Nói cách khác, người đi đầu thai, phải tìm đối tượng.
Bạn mong cầu chúng, chưa chắc chúng đã để ý tới bạn! Tìm đối tượng nào? Có mối
quan hệ trong đời quá khứ. Trong kinh, đức Phật đã nói bốn loại nhân duyên.
1)
Loại
thứ nhất là báo ân
Trong quá khứ
(hay đời quá khứ), đôi bên có ân huệ với nhau, lần này họ lại thấy bạn, bèn đầu
thai vào nhà bạn, sẽ trở thành con hiếu, cháu hiền, đến để báo ân tình xưa.
2)
Loại
thứ hai là báo oán
Trong quá khứ (hay đời quá khứ), bạn kết cừu hận với
họ. Gặp gỡ lần này, họ đến làm con cái bạn, mai sau lớn lên sẽ thành đứa con
khiến cho gia đình suy bại, khiến cho bạn nhà tan, người chết, nó đến để báo thù
bạn..! Vì thế, chớ nên kết oán cừu cùng kẻ khác. Kẻ oán cừu bên ngoài có thể đề
phòng, chứ họ đến đầu thai trong nhà, làm cách nào đây? Bạn hại người đó hay hại
chết kẻ đó, thần thức kẻ ấy sẽ đến làm con cháu trong nhà bạn. Đó gọi là “con
cháu ngỗ nghịch” khiến cho nhà tan, người chết..!
3)
Loại
thứ ba là đòi nợ
Đời quá khứ (hay đời quá khứ), cha mẹ thiếu nợ
chúng, chúng đến đòi nợ. Nếu thiếu nợ ít, nuôi hai, ba năm, con bèn chết. Nếu
thiếu nợ nhiều, đại khái là nuôi đến khi tốt nghiệp đại học, sắp có thể làm việc
bèn chết mất. Nợ đã đòi xong, chúng bèn ra đi.
4)
Loại
thứ tư là trả nợ
Con cái thiếu nợ cha mẹ quá khứ (hay đời quá khứ) hiện
tai hay đời này gặp gỡ, nó phải trả nợ. Chúng phải nỗ lực làm lụng để nuôi nấng
cha mẹ. Nếu chúng thiếu nợ cha mẹ rất nhiều, chúng cung phụng cha mẹ vật chất rất
trọng hậu. Nếu thiếu nợ rất ít, chúng lo cho cuộc sống của cha mẹ rất tệ bạc,
miễn sao bạn chẳng chết đói là được rồi. Hạng người này tuy có thể phụng dưỡng
cha mẹ, nhưng thiếu lòng cung kính, chẳng có tâm hiếu thuận. Báo ân bèn có tâm
hiếu thuận, chứ trả nợ chẳng có tâm hiếu thuận. Thậm chí trong lòng chúng còn
ghét bỏ, chán ngán cha mẹ, nhưng vẫn cho bạn tiền để sống, nhiều hay ít là do
xưa kia bạn thiếu chúng nhiều hay ít.
* Nhưng cũng có thể họ có nhiều duyên nợ với chúng
sanh nhưng lại đi gieo nhân không con (như phá thai, sát sanh, giết người…) ở
quá khứ hay tiền kiếp nên hiện tại lại phải trả nghiệp nên không có
con. hoặc họ muốn có con thì phải sám hối, và làm thật nhiều việc tốt, hướng
thiện và phóng sanh… Nói chung thì đường đi của Luật nhân quả rất phức tạp khó
ai thấu hiểu hết.
Đức Phật dạy rõ chân tướng sự thật, người một nhà là
do bốn loại quan hệ ấy mà tụ hợp. Gia đình là như thế, mà người trong một họ
cũng là như thế. Ân, oán, nợ nần nhiều, bèn biến thành cha con, anh em một nhà
hay ân oán, nợ nần ít hơn cũng có thể biến thành thân thích, bầu bạn. Do đó, giữa
người và người với nhau đều có duyên phận. Bạn đi đường, một kẻ xa lạ gật đầu mỉm
cười với bạn cũng là do duyên phận xưa kia. Thấy một kẻ xa lạ, vừa thấy kẻ ấy
liền cảm thấy gai mắt cũng là do duyên phận trong quá khứ.
Phải hiểu rõ chân tướng sự thật, chúng ta khởi tâm động
niệm chớ nên không cẩn thận, ngàn muôn phần đừng kết oán cừu với hết thảy chúng
sanh, đừng nên có quan hệ nợ nần với hết thảy chúng sanh. Thiếu nợ phải trả cho
sạch nợ, để tương lai hay đời sau khỏi phải đền trả nữa. Chuyện này rất phiền
toái! Giáo huấn của thánh hiền Nho và Phật đều dạy chúng ta phải hóa giải ân
oán. “Hóa giải” sẽ là phương pháp tốt lành nhất và viên mãn nhất.
Chúng ta cùng tìm hiểu sâu thêm về các mối quan hệ
giữa vợ chồng, cha mẹ và con cái được trích từ “Những bí ẩn cuộc đời” để tham
khảo thêm về vấn đề này nhé.
– Trong nhiều thế kỷ, gia đình là một tổ chức riêng
biệt mà người gia trưởng là người cha, hay người mẹ, theo phong tục ở một vài xứ.
Những tổ chức gia đình ấy vẫn luôn luôn tồn tại ở khắp nơi. Theo một quan niệm
duy vật, người ta coi trẻ con như là một sở hữu của cha mẹ của chúng: Chúng
sinh ra do bởi sự mang nặng đẻ đau và hy sinh của người mẹ; chúng được nuôi dưỡng
do bởi sự làm lụng khó khăn vất vả của cha mẹ. Nói về phương diện vật chất, những
người làm cha mẹ có một thể chất khỏe mạnh hơn, già dặn hơn thông minh hơn những
đứa con; vì lẽ đó họ có quyền ngự trị trong gia đình.
Nhưng nói về phương diện tâm linh, thì không hề có vấn
đề cha mẹ là tuyệt đối cao cả hơn con cái vì tất cả sinh linh trong Trời Đất đều
là những đơn vị bình đẳng của toàn thể một cơ cấu rộng lớn. Trên bình diện tâm
linh, cha mẹ không có sở hữu con cái, thậm chí cũng không phải là những người
sáng tạo ra con cái. Họ chỉ là những phương tiện cho những linh hồn của những đứa
con mượn chỗ đầu thai ở cõi thế gian. Một sự vận hành mầu nhiệm trong cơ thể họ
khiến cho họ giao hợp với nhau trong một lúc và làm vận chuyển một cơ cấu cũng
không kém mầu nhiệm, mà kết quả là sự cấu tạo và sinh ra một thể xác hài nhi. Thể
xác đó trở nên chỗ nương ngụ của một linh hồn khác cũng tiến hóa như chúng ta.
Linh hồn ấy nhất thời bị yếu kém vì cơ thể còn non nớt và chưa thể biết nói
ngay được, trách niệm và bổn phận của chúng ta trong sự nuôi dưỡng cho nó lớn
lên, đều là những kinh nghiệm rất quý báu cho ta. Đó là những kinh nghiệm để
giúp ta tiến hóa trên con đường tâm linh và khai mở đức hy sinh và bác ái, với
một tấm lòng thương cảm và trìu mến sâu xa thâm trầm.
Những sự việc tốt lành kể trên chỉ xảy ra khi người
làm cha mẹ không có lòng chiếm hữu và áp chế con cái dưới một hình thức nào đó.
Trong quyển “The Prophet”, ông Khalil Gibran viết như sau:
“Con cái của anh sinh ra, không phải là của anh.
Chúng nó chỉ là con cái của “Sự sống bất diệt trường tồn”
Chúng do anh
sinh ra, chớ không phải là của anh. Và tuy chúng sống chung với anh trong một
nhà, nhưng chúng không thuộc quyền sở hữu của anh. Anh chỉ là những cái cung nhờ
đó những đứa con anh lấy đà vùng vẫy, chẳng khác nào như mũi tên bắn ra tận bốn
phương trời. Người Cung Thủ kéo sợi dây cung là nhằm mục đích hòa vui, và trong
khi Người yêu cái mũi tên bay, Người cũng yêu cái cung còn ở lại.”
Đối với con cái, những bậc phụ huynh không nên có một
thái độ áp chế quá vô lý của kẻ bề trên, hoặc một thái độ ganh ghét ruồng bỏ. Một
thái độ bình thản ôn hòa là thái độ thích nghi nhất của người cha mẹ đối với
con cái mà họ có bổn phận nuôi dưỡng chăm nom, dạy dỗ cho thật tốt. Họ chỉ có
được thái độ ấy khi nào họ hiểu biết điều chân lý căn bản này, là tất cả chúng
sinh, tất cả mọi sinh linh đều bình đẳng với nhau. Nói theo danh từ thường dùng
trong những cuộc soi kiếp của ông Cayce, những người làm cha mẹ là những con
“Kinh vận hà” để cho nguồn sinh hoạt đi xuyên qua, và nhờ đó những linh hồn có
phương tiện để đầu thai ở cõi trần. Bởi vậy những cặp nam nữ sắp sửa thành hôn
được khuyên nhủ và dặn dò về tánh cách thiêng liêng của sự giao hợp giữa vợ chồng.
Quan điểm này đúng với quan điểm triết học Ấn Độ cho rằng vấn đề tình dục và
sinh lý giữa nam nữ có một ý nghĩa thiêng liêng và cao quý. Nhưng bất hạnh
thay, khoa Thần học cổ truyền của đạo Gia Tô lại coi mọi vấn đề liên quan đến sự
sinh dục như là dấu vết của tội lỗi. Do một sự hiểu lầm đáng tiếc về biểu tượng
diễn tả trong Chương La Genèse của bộ Kinh, toàn thể nhân loại bị coi như là kết
quả của “Tội lỗi nguyên thủy” gây ra bởi Adam và Eva. Tuy rằng hôn lễ hợp pháp
hóa sự giao hợp giữa vợ chồng, người ta vẫn nghĩa rằng con cái được sinh ra
trong vòng tội lỗi. Đó là những quan niệm sai lầm về vấn đề sinh lý tự nhiên của
cơ thể con người theo như ý muốn của Thượng Đế.
Quan niệm sai lầm ấy có những hậu quả tâm lý rất tai
hại, gây nên những sự dồn ép sinh lý, ý niệm tội lỗi và những xung đột tâm lý
thuộc về loại trầm trọng và tê liệt nhất. Tuy nhiên, giải pháp đối tượng của vấn
đề này không phải là tự do luyến ái, hay tự do thỏa mãn dục tính. Giải pháp
thích nghi là sự thông hiểu một cách tường tận rằng khả năng sinh sản của con
người là một quyền năng thiêng liêng.
Có với một người đàn bà ba mươi sáu tuổi hỏi ông rằng
bà ấy còn hy vọng có con hay không, cuộc soi kiếp nói: “Bà hãy tự luyện mình
thành một khí cụ tốt lành hơn về mọi mặt thể chất, trí não, và tâm linh. Người
đời thường có thói quen chỉ xem sự thụ thai như một việc làm thuộc về thể chất
mà thôi.”
Một cuộc soi kiếp khác nói: “Do sự giao hợp, con người
có dịp tạo nên một đường vận hà để cho đấng Tạo Hóa có thể hành động xuyên qua
nàng bằng quyền năng Sáng Tạo của Ngài. Vậy đương sự hãy cẩn thận coi chừng
thái độ của mình và của người bạn trăm năm của mình khi các người tạo nên các
cơ hội đó, vì linh hồn đầu thai vào làm con các người sẽ có một tánh tình tùy
thuộc một phần nào ở thái độ của cha mẹ”.
Những cuộc soi kiếp cho biết rằng những mối liên hệ
giữa cha mẹ và con cái không phải do sự ngẫu nhiên tình cờ. Những sợi dây duyên
nghiệp thường đã có sau từ những kiếp trước giữa người con với người cha và cả
người mẹ hoặc chỉ người cha hay người mẹ. Trong những trường hợp rất hiếm mà sợi
dây liên lạc đó không có, thì tình trạng gia đình tạo nên cái hoàn cảnh thích ứng
với nhu cầu tâm lý của đứa trẻ. Những hồ sơ Cayce cho biết rằng vài đứa trẻ có
một sợi dây duyên nghiệp với người cha mà không có với người mẹ, hoặc đảo ngược
lại, có duyên nghiệp với người mẹ mà không có người cha Trong những trường hợp
đó, thường có một trạng thái dửng dưng giữa đứa con với người cha hay người mẹ
mà nó mới quen biết lần đầu tiên trong kiếp này. Những trường hợp dưới đây chỉ
cho ta thấy một cách đặc biệt nhiều mối liên hệ khác nhau giữa cha mẹ và con
cái.
Hai mẹ con người kia có một tình mẫu tử rất khắn
khít: Họ đã là hai mẹ con trong kiếp trước. Hai cha con người kia cũng có một
tình phụ tử nồng nàn: Trong một kiếp trước họ đã là hai anh em trong một gia
đình. Một người mẹ không hạp với con gái của bà: Họ chưa từng có sự liên hệ gì
với nhau ở trong kiếp trước. Giữa một người con gái kia với người mẹ của cô ấy,
chỉ có một sự dửng dưng lạnh nhạt; cuộc soi kiếp cho biết kiếp trước hai người
là hai chị em ruột nhưng lại có một mối bất hòa trầm trọng: Hai người thường
xung đột cãi vả lẫn nhau, và vẫn chưa hòa thuận trở lại. Hai cha con người kia
kiếp trước là hai vợ chồng. Một người mẹ và con gái thường xung đột lẫn nhau:
Trong kiếp trước, họ là hai bạn gái tranh dành nhau một người đàn ông và tranh
dành địa vị. Trong hai mẹ con người, người con trai hay lấn át người mẹ: Trong
kiếp trước, họ là hai cha con, với sự liên hệ gia đình trái ngược lại.
Những trường hợp đó chỉ rằng sự hấp dẫn của con cái
đến với cha mẹ là do bởi sự hành động của nhiều nguyên tắc. Những nguyên tắc đó
nhiều đều ẩn dấu đối với cặp mắt phàm của chúng ta Những hồ sơ soi kiếp của
Cayce giúp cho ta có những tài liệu suy gẫm, nhưng không có đầy đủ chi tiết để
cho ta có thể dịch ra thành một định luật nhất định.
Theo luật hấp dẫn, những người đồng thanh khí và giống
nhau về tâm tình tánh chất thường rút lại gần nhau hơn. Nhưng đồng thời vì những
lý do duyên nghiệp nợ nần hay nhân quả nào đó, những kẻ thù nghịch cạnh tranh
nhau và tâm tính tánh chất đối chọi nhau thường cũng hay rút lại gần nhau. Một
thí dụ điển hình là trường hợp một đứa trẻ được ông Cayce soi kiếp khi mới lên
năm tuổi. Cuộc soi kiếp cho biết những đặc tính của đứa trẻ là thói ích kỷ, sự
thờ ơ lãnh đạm và ngoan cố không chịu phục thiện khi y có lỗi. Y có những khả
năng tiềm tàng của một nhà khảo cứu khoa học. Trong một kiếp trước, y là một
nhà sưu tầm về tiềm lực của hơi nước như là một khí cụ sản xuất tinh lực. Ở một
kiếp trước, y là một chuyên viên hóa học chế tạo cac loại chất nổ, trong kiếp
trước nữa y là một chuyên viên ngành cơ khí và đi l i về dĩ vãng một kiếp nữa,
người ta thấy y là một kỹ sư điện khí ở châu Atlantidẹ Bốn kiếp dành cho sự hoạt
động tích cực về ngành khoa học thực dụng đã làm cho đương sự hoạt động tích cực
về ngành khoa học thực dụng đã làm cho đương sự phát triển những khả năng đặc
biệt, nhưng y lại quá thiên về giá trị của khoa học vật chất mà khinh rẻ giá trị
của tình thương, đức tính mỹ lệ, và sự hợp nhất tâm linh của mọi loài vạn vật.
Bởi đó, y có một thái độ thản nhiên lạnh lùng đối với
người chung quanh. Cuộc soi kiếp còn cho biết rằng đứa trẻ ấy sẽ thành công vẻ
vang trong kiếp này nếu nó theo đuổi ngành kỹ thuật điện khí, hay cơ khí dùng sức
mạnh của hơi nước, và gồm một công việc có dùng đến sự tính toán bằng phép đại
số. Lời tiên tri đã tỏ ra hoàn toàn đúng. Đứa trẻ ấy bây giời đã trở nên một
viên kỹ sư điện khí và những điểm chính trong tánh tình của y đều giống y như
cuộc soi kiếp đã tiết lộ, tuy rằng y đã có một sự thay đổi tánh tình nhờ ảnh hưỡng
của hoàn cảnh gia đình trong kiếp hiện tại.
Nếu nói rằng theo luật đồng khí tương cầu, những người
giống nhau sẽ rút lại gần nhau, thì trong trường hợp này có lẽ đứa trẻ đã sinh
ra trong một gia đình khoa học trí thức, mà người cha có lẽ là một kỹ sư và người
mẹ là một giáo sư toán pháp ở một trường Đại Học chẳng hạn. Nhưng trái lại, y lại
sinh ra trong một gia đình gồm những người nuôi lý tưởng vị tha, không có óc hoạt
động thực tế. Người cha có óc tín ngưỡng tôn giáo và thích hoạt động xã hội;
người mẹ tuy rằng bề xã giao hơi kém, nhưng có khuynh hướng hoạt động xã hội do
ảnh hưởng của người chạ Người anh cả của đứa trẻ cũng là một người có lý tưởng
vị tha, và sự hoạt động chính của y trong đời là giúp đỡ kẻ khác.
Xét về bề ngoài, thì sự đầu thai của một đứa trẻ như
thế trong gia đình kể trên chưa thể nói là do nhân quả gây nên. Tuy nhiên, dường
như có một nguyên tắc sửa đổi, chấn chỉnh những điều thiên lệch để đem lại sự
thăng bằng trong tâm tính của một con người.
Có thể rằng linh hồn đứa trẻ đã nhận thấy sự khuyết
điểm của mình và đã chọn lựa đầu thai vào một gia đình có lý tưởng vị tha giúp
đời, để cho y có cơ hội phát triển khía cạnh vị tha bác ái trong tâm tính của
y.
Trong kiếp hiện tại, đứa trẻ luôn luôn có dịp tiếp
xúc với những người mà mục đích chính trong đời là phụng sự kẻ khác. Óc thực tế
của y thường ảnh hưởng đến những người khác trong gia đình một cách lành mạnh,
trái lại, lý tưởng vị tha của họ hằng ngày đều nhắc nhở cho y biết rằng ngoài
ra những giá trị thực tế và vật chất của cuộc đời, còn có những giá trị đạo đức
tâm linh. Tuy rằng kinh nghiệm đó không có đem đến một sự thay đổi hoàn toàn
trong cái giá trị căn bản của cuộc đời y là khoa học thực dụng, nhưng nó đã ảnh
hưởng đến con người của y bằng cách làm cho y trở nên bớt ích kỷ khô khan và trở
nên cởi mở hồn nhiên hơn về mặt giao tế ngoài xã hội.
Như thế, việc chọn lựa hoàn cảnh để đầu thai dường
như đã đạt được mục đích sửa đổi tâm tính và cuộc đới của y ít nhất là một phần
nào. Những tài liệu hồ sơ Cayce chứng minh một cách đầy đủ rằng những linh hồn
sắp sửa tái sinh trở lại cõi trần có một ít là được tự do trong việc chọn lựa
hoàn cảnh và gia đình nào họ muốn đầu thai đây cũng có thể là duyên nghiệp hay
nợ nần gì với người cha, người mẹ. Có vài bằng chứng chỉ rằng đối với những
linh hồn kém tiến hóa, thì sự tự do chọn lựa ấy có giới hạn, nhưng nói chung
thì sự lựa chọn cha mẹ để đầu thai dường như là một cái đặc quyền của mỗi linh
hồn.
Người ta không dễ hiểu lý do tại sao một linh hồn lại
cố tình chịu đầu thai vào một nhà ổ chuột tôi tăm trong ngõ hẻm, với những cha
mẹ bần cùng khốn khó, một thể xác yếu đuối bệnh tật, và những hoàn cảnh bất lợi
khác. Xét qua bề ngoài thì dường như một sự chọn lựa như thế có vẻ vô lý, nhưng
nếu xét kỹ người ta thấy rằng điều ấy cũng có một lý do sâu xa về nhân quả –
nghiệp báo nên họ mới bị đầu thai vào đó nhưng lại có khi một linh hồn cố ý chọn
lựa một hoàn cảnh xấu xa bất lợi để làm phương tiện lấy đà, hầu có nỗ lực cố gắng
vượt qua mọi chướng ngại và chiến thắng nghịch cảnh.
Có một điều lạ là sự tự do chọn lựa ấy dường như là
có một ảnh hưởng đến tỷ lệ chết yểu của trẻ con. Nói chung thì khi sinh ra, một
linh hồn có thể thoáng thấy một phần nào cái viễn ảnh cuộc đời tương lai của
mình ở thế gian, khi y chọn lựa cha mẹ của y và hoàn cảnh để đầu thai. Nhưng vì
con người còn có quyền xử dụng ý chí, tự do nên luật Tự Nhiên khiến cho y không
thể nào biết trước tất cả mọi việc xảy ra trong tương lai. Sau khi đã chọn lựa
cha mẹ và sinh ra ở thế gian, một linh hồn có thể nhận thấy rằng những người
làm cha mẹ của y không ứng đáp lại đúng y như nguyện vọng của y sở cầu. Bởi đó,
cái mục đích của y nhắm khi đầu thai vào làm con trong gia đình ấy đã hỏng, vì
y đã gặp phải những hoàn cảnh khác hẳn, nên linh hồn bèn không muốn sống nữa và
tự ý rút lui.
Dưới đây là một trường hợp một thiếu phụ mà cuộc soi
kiếp cho biết rằng trong một kiếp trước, nàng đã bị chết yểu. Kiếp này nàng đầu
thai trở lại một gia đình nọ do bởi sự hấp dẫn của người mẹ, nhưng sau khi sinh
ra nàng được ít lâu thì người cha bắt đầu say sưa chè chén, trở nên thô lỗ cộc
cằn và đánh đập vợ con. Thất vọng vì cảnh gia đình ấy, linh hồn đứa trẻ bèn quyết
định không sống nữa và sau một cơn đau ốm vặt thuộc về bịnh trẻ con, nàng bèn từ
giả cõi trần để trở về chốn cũ! Cuộc soi kiếp cho biết rằng những sự “Rút lui”
như thế là những hiện tượng rất thông thường. Nếu như vậy, thì sự chết yểu của
trẻ con, ít nhất trong vài trường hợp, có thể ví dụ như sư rút lui âm thầm của
một khán giả đi xem hát, bị thất vọng khi xem một màn đầu không được hấp dẫn,
bèn lẳng lặng đứng dậy bỏ ra về. Trong vài trường hợp như trường hợp kể trên, một
sự rút lui như thế có thể là do sự lỗi lầm của những người làm cha mẹ; nhưng
trong những trường hợp khác, nó chỉ là do sự xét đoán sai lầm của linh hồn đầu
thai.
Đôi khi, sự chết yểu của một đứa con vừa sinh ra có
thể được coi như một kinh nghiệm đau khổ cần thiết cho những người làm cha mẹ.
Đứa con chỉ sinh ra có một lúc ngắn ngủi với một tinh thần hy sinh, để đem lại
cho một bài học đau khổ mà họ cần dùng, và nhờ đó họ sẽ có cơ hội tiến hóa về
tinh thần.
Một điểm lý thú khác đã được xác nhận rõ ràng và nhiều
lần trong những tập hồ sơ của Cayce, là lúc thụ thai không phải là lúc nào linh
hồn của đứa trẻ nhập vào trong bụng người mẹ. Những cuộc soi kiếp thường khuyên
các bà mẹ có mang hãy giữ gìn tư tưởng trong thời kỳ thai nghén, vì những tư tưởng
của người mẹ có thể ảnh hưởng đến cái bào thai, và quyết định một phần nào về
loại linh hồn nào sẽ đầu thai vào làm cho con họ.
Về điểm này và nhiều điểm khác nữa, người ta cần có
những cuộc sưu tầm bằng khả năng khiếu Thần Nhãn. Sự sinh sản không phải là một
sự tình cờ, và việc một đứa trẻ lọt lòng mẹ để chào đời không phải là một điều
giản dị như người ta có thể tưởng. Về vấn đề này cũng như bao nhiêu vấn đề khác
trên địa hạt nhân sinh, những cuộc soi kiếp của ông Cayce đã tỏ ra vô cùng lý
thú và hữu ích vì nó hé mở những chân trời mới lạ để dìu dắt những cuộc sưu tầm
khảo cứu của người đời nay.
·
Kết:
Thực ra chỉ có những người nghiệp tương đối nhẹ mới
có thể ước nguyện lựa chọn cha mẹ. Những người cực thiện sẽ đầu thai ngay về
cõi lành (cõi trời), những người cực ác sẽ bị lôi kéo ngay vào các nơi xấu (địa
ngục hay ngạ quỷ ), không thể tự mình quyết định nơi đầu thai.
Nói chung vẫn chủ yếu do duyên nghiệp của họ với người
cha và người mẹ hoặc nghiệp người ấy đã gây tạo khi còn sống thế nào họ sẽ thác
sinh về cõi giới tương ứng.
Bài trên chủ yếu nêu các vấn đề xảy ra trên thực tế,
còn những việc sâu xa và các đường đi của duyên nghiệp hay nhân quả thì không
thể dùng thuật thôi miên soi kiếp mà biết được vì rất phức tạp và còn rất nhiều
nguyên do khác nữa, do đó cũng có những nhận xét chủ quan. Chúng ta đọc để tham
khảo và suy ngẫm là chính, chứ không có bất kỳ một ai rõ được đường đi tường tận
của Luật Nhân quả, nghiệp báo và luân hồi.
Theo
Lang
Nhin Cuoc Song
Bài
viết cùng chuyên mục :